Michelin Guide hiện được coi là cẩm nang ẩm thực danh giá nhất thế giới, xếp hạng nhà hàng thông qua hệ thống "sao". Một sao dành cho nhà hàng "có chất lượng món ăn ngon, xứng đáng để dừng chân thưởng thức". Hai sao là "nhà hàng có chất lượng món ăn xuất sắc, xứng đáng để khách quay lại". Ba sao (cao nhất) là nơi "chất lượng món ăn tuyệt hảo, xứng đáng để lên kế hoạch đến tận nơi thưởng thức". Các nhà hàng đạt ba sao đều mang đến trải nghiệm ẩm thực cao cấp, mức giá đắt đỏ.
Mức lương của những nhà khoa học nổi tiếng thế giới
Thứ tư, ngày 05/08/2020 12:33 PM (GMT+7)
Cũng như nhiều người bình thường, các nhà khoa học vĩ đại như Albert Einstein, Marie Curie hay Isaac Newton từng làm việc không công, sống khó khăn vì mức lương thấp và phải nỗ lực hết mình để cải thiện cuộc sống.
Năm 1933, khi đến đại học Princeton, Mỹ, Einstein có mức lương là 3000 USD.
Năm 1856, với vai trò cố vấn khoa học cho tập đoàn Trinity House, Michael Faraday được trả mức lương là 227 USD.
Caroline là người phụ nữ đầu tiên được trả lương nhờ những cống hiến khoa học của mình.
Alexander Fleming được trà 1366 USD vào năm 1924, 4 năm sau khi ông tìm ra Penicillin.
Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni là một nhà điêu khắc, kiến trúc sư, hoạ sĩ và thi sĩ Ý đã có sức ảnh hưởng mãnh liệt đến nền tảng Mĩ Thuật Phương Tây sau này. Cùng với Leonardo da Vinci, ông đã tạo ra giá trị rực rỡ cho thời kỳ Phục Hưng Đỉnh Cao.
Michelangelo tự coi là một người con của thành Florence hào hoa, cho dù ông được sinh ra vào ngày 6-3-1475 tại một khu làng nhỏ của vùng Caprese, gần kề thủ phủ Arezzo. Ông đã có một ràng buộc chặt chẽ với thành phố quê hương, với nền tảng mĩ thuật, văn hoá của thành phố Florence trong suốt cuộc đời mình. Tuổi thanh xuân của ông trôi qua phần lớn tại thành Rome khi làm việc cho các Giáo Hoàng nhưng một tâm niệm luôn day dẳng trong ông là nếu chết thì mong được chôn cất tại Florence. Và tâm nguyện đó đã được hiện thực hoá, ông đã vĩnh viễn siêu thoát trong một khu tưởng niệm tại nhà thờ Santa Croce.
Thân phụ của ông tên là Ludovico Buonarroti Simoni, một quan chức của thành Florence có quan hệ với chính quyền của gia đình Medici, đã gửi gắm cậu con trai 13 tuổi của mình vào xưởng vẽ của hoạ sĩ Domenico Ghirlandaio. 2 năm sau, Michelangelo theo học tại trường đào tạo điêu khắc đặt tại gia viên nhà Medici và không lâu sau ông được mời đến khu biêt thự Tráng Lệ của ngài Lorenzo de Medici. Tại đây ông có cơ hội được làm quen với con cháu nhà Medici, những người sau đó trở thành Giáo Hoàng Leo X và Clement VII. ông cũng trở thành bạn thân của nhà Nhân Chủng học Marsilio Ficino và thi sĩ Angelo Poliziano.
Michelangelo đã sáng tác ít nhất 2 tác phẩm điêu khắc vào thời gian này, khi ông mới 16 tuổi, đó là tác phẩm: The Battle of the Centaurs (Cuộc chiến của các Nhân Mã), và The Madonna of the Stairs (Đức Mẹ trên cầu thang, 1489-92, Casa Buonarroti, Florence), và 2 tác phẩm này đều thể hiện thành công phong cách cá nhân của ông trong những năm trẻ tuổi.
Lorenzo, nhà bảo trợ của ông, mất vào năm 1492, chỉ 2 năm sau ngày Michelangelo từ giã thành Florence khi gia đình Medici bị trục xuất khỏi xứ sở. Michelangelo đã định cư tại thành Bologna, và chính tại đây ông đã tạc một số bức tượng bằng đá cẩm thạch tại khu Thánh Cốt Arca trong nhà thờ San Domenico vào năm 1494 và 1495.
Sau đó Michelangelo đi Rome, tại đây ông đã thử nghiệm rất nhiều những pho tượng mang một hơi thở mới, phong cách mới nhưng tiếc thay hầu hết những tác phẩm này đã bị phá huỷ. Ông cũng hoàn thành công trình điêu khắc cỡ lớn đầu tiên của mình, đó là tác phẩm về thần rượu Bacchus trong giai đoạn 1496-1498 và hiện đang trưng bày tại Bargello, Florence. Một số tác phẩm của ông thường mô tả về những chủ đề Đa thần giáo hơn là những chủ đề mang tính Thiên Chúa Giáo, trái ngược hoàn toàn với xu hướng tạc tượng thời đó, nhưng các tác phẩm này đã nhận được sự ngưỡng mộ của phong trào Phục Hưng Đỉnh Cao tại thành Rome.
Cũng trong thời gian này, ông cũng tạc bức Pietà (1498-1500) bằng đá hoa cương, và bức tượng này vẫn tại vị đúng nơi ông đã đặt tác phẩm: nhà thờ Thánh Phêrô (Peter’s Basilica). Đây là một trong những bức tượng nổi tiếng nhất mà ông hoàn thành trước tuổi 25 và cũng là tác phẩm duy nhất được ông ký tên lên. Đức Mẹ Mary trẻ trung hiện lên ở vị trí đang ngồi rất nghiêm kính, ôm trong lòng thi thể của Đức Chúa, một đề tài thường thấy ở Mĩ thuật vùng Bắc Âu. Thay vì biểu lộ nỗi đau khổ cực độ, đức Mẹ lại tỏ rõ sự chịu đựng nhẫn nhục và những biểu hiện bên ngoài của đức Mẹ tới người xem chính là đức Nhẫn Nhục của bà. Trong tác phẩm này, ông đã thâu tóm thành công những tiến bộ trong ngành điêu khắc từ thế kỷ 15 của các bậc tiền bối như Donatello, trong khi vẫn thổi vào hồn tác phẩm những nét tinh hoa của trào lưu Điêu khắc trong thế kỷ 16 của phong trào Phục Hưng Đỉnh Cao.
Đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác điêu khắc của Michelangelo là tác phẩm David khổng lồ (4,34 m) mà ông đã gia công từ năm 1501 đến 1504, ngay sau khi ông trở lại Florence. Người anh hùng huyền thoại này được mô tả trong trạng thái khoả thân, rất uyển chuyển và mềm dẻo, những múi cơ bắp tuyệt đẹp đầy tính đe doạ; David đang nhìn vào một khoảng không mông lung sau khi đã đã đánh gục người khổng lồ Goliath, kẻ thù bất ngờ của chàng. Khuôn mặt chàng biểu lộ lòng quả cảm và quyết tâm cao độ khiến người ta phải hãi hùng, e sợ và đây cũng là đặc điểm tiêu biểu của rất nhiều hình tượng sáng tác của Michelangelo, cũng như dấu ấn cá nhân của riêng ông. David - tác phẩm nổi tiếng của ông đã trở thành biểu tượng của thành phố Florence xinh đẹp và hiện nay vẫn được đặt nguyên vị tại quảng trường Piazza della Signoria ngay phía trước Cung điện Palazzo Vecchio, nay là toà thị chính. Với bức tượng này, ông đã vượt hẳn lên so với những nghệ sĩ đương thời, không những tại Hy Lạp và La Mã mà còn hơn hẳn các nghệ sĩ hiện đại bằng những kỹ thuật mô tả những đường nét và hồn tác phẩm rất mạnh mẽ và tuyệt đẹp.
Trong thời gian chú tâm cho bức tượng David, Michelangelo vẫn thể hiện khả năng hội hoạ của mình trong sứ mệnh vẽ bức tranh tường The Battle of Cascina (Trận chiến Cascina) tại Sala dei Cinquecent (Phòng 500 đại biểu) ở Palazzo Vecchio (Cung điện cổ); tác phẩm này đối diện với tác phẩm Battle of Anghiari (Trận chiến Anghiari) của danh hoạ Leonardo da Vinci. Nhưng chẳng ai hoàn thành tác phẩm của mình cả, tất cả chỉ dừng lại ở mức phác thảo với kích cỡ thật. Michelangelo đã phác thảo hàng loạt những hình tượng ở trạng thái khoả thân hay có y phục và tất cả những phác thảo này đều được đem vào tác phẩm chính của ông sau này, bức tranh trên trần nhà nguyện Sixtin, tại Vatican.
Khi Michelangelo được chính đức Giáo Hoàng Julius II vời lại Rome vào năm 1505 để thực hiện 2 tác phẩm lớn (một trong số đó chính là bức tranh vòm đã nói trên), ông thấy đây quả thật là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Ông phải làm việc ở độ cao, treo mình trên những giàn giáo và ông đã vẽ trong tư thế đó suốt từ năm 1508 đến năm 1512 để tạo ra một loạt trong số những bức hoạ đẹp nhất mọi đại.
Trên khung vòm tại nhà nguyện này ông tạo ra một hệ thống trang trí vô cùng phức tạp bao gồm 9 cảnh lấy từ Chương "Chúa sáng tạo ra thế giới" (Kinh Cựu Ước), bắt đầu bằng cảnh Chúa phân chia Ánh Sáng và Bóng Đêm, cảnh tạo ra Adam, cảnh tạo ra Eve, sự quyến rũ và sa ngã của Adam và Eve, cảnh đại hồng thuỷ. Những bức hoạ này được đặt tại vị trí trung tâm, bao quanh bởi các hình ảnh về những vị tiên tri, những bà đồng cốt, bệ đá đăng quang, bởi những hình tượng lấy trong Cựu Ước, và những hình ảnh về các bậc tổ của loài người.
Để chuẩn bị cho tác phẩm đồ sộ này, ông đã phải nghiên cứu, thiết kế hàng loạt phác thảo, tạo ra các hình tượng hạt nhân cho mỗi mẫu nhân vật. Chính điều đó đã thể hiện khả năng độc nhất vô nhị của ông trong việc nghiên cứu về giải phẫu học cơ thể, nghiên cứu các chuyển động của con người, nghiên cứu các hình ảnh huyền bí trong tôn giáo vô cùng kỹ lưỡng. Do vậy ông đã làm thay đổi về phong cách hội hoạ của Phương Tây một cách mạnh mẽ.
Nhà Mồ của Giáo Hoàng Julius II
Trước khi vẽ tác phẩm trên, ông cũng được đức Giáo Hoàng Julius II giao phó công việc thiết kế một công trình tiêu biểu nhất thời đại Thiên Chúa Giáo: lăng tẩm của Julius II. Lăng này dự kiến đặt tại nhà thờ thánh Peter, và đây lại là một thử thách đối với Michelangelo. Công trình tuyệt phẩm này bao gồm hơn 40 nhóm tượng mà chất liệu phải là đá cẩm thạch xứ Carrara. Tuy nhiên, do nguồn tài chính có hạn, Giáo hoàng đã yêu cầu ông đem vào lăng tẩm của mình một vài bức hoạ giáo hoàng ưa thích trong nhóm tranh trên trần nhà nguyện Sixtin. Khi tiến hành xây dựng lăng tẩm, ông đã tái thiết kế những bức tranh đó với hơi hướng hiện đại nhất.
Ông cũng hoàn thành một số tác phẩm điêu khắc đẹp nhất đời mình cho khu lăng tẩm của Julius, bao gồm tượng Tộc trưởng Mô-sê (1515), giờ đặt tại nhà thờ San Pietro in Vincoli - Rome. Hình tượng Mose hiện ra với các cơ bắp thon chắc ngồi trong ánh sáng nhạt, đang giữ chặt Cuốn 10 điều răn của Chúa, bộ râu dài chạm sát đôi cánh tay khoẻ mạnh. Mose nhìn mơ hồ vào khoảng không và dường như đang nói chuyện với Chúa.
Hai bức tượng siêu phẩm khác, The Bound Slave (Người Nô lệ bị giam giữ) và The Dying Slave (Người Nô lệ hấp hối) đều hoàn thành trong giai đoạn 1510-1513, và hiện trưng bày tại Bảo tàng Louvre, Paris. Chúng càng thể hiển rõ nét hơn phương pháp tiếp cận của Michelangelo trong điêu khắc. Ông thể hiện sự cầm tù nhân vật của mình bằng các khối đá và chỉ cần lược bỏ đi những "mẩu đá thừa" thế là tác phẩm đã được hình thành. Ở đây, trái với tác phong sáng tác của mình, Michelangelo đã để tác phẩm trong tình trạng dang dở (non-finito) có lẽ ông đã hài lòng với tình trạng này của tác phẩm và muốn dùng sự dang dở đó để truyền đạt tới người xem thân phận khốn khổ của những con người nô lệ.
Là tác giả thành danh từ những năm 70 của thế kỷ trước, nhà điêu khắc Vũ Tiến đã có những đóng góp đáng kể với nghệ thuật điêu khắc. Từ những phiến gỗ vô tri, vô giác, ông đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật sống động, đẹp mắt và có hồn.
Nghệ thuật điêu khắc luôn song hành cùng với cuộc sống của dân tộc Việt Nam. Với nhà điêu khắc Vũ Tiến, người nghệ sỹ đã trải qua hơn 60 năm gắn bó với nghiệp điêu khắc, mỗi tác phẩm lại mang đậm những dấu ấn và phong cách riêng, khéo léo thể hiện cái tâm, cái tình với những "đứa con tinh thần". Ông quan niệm, điêu khắc phải gắn bó mật thiết với kiến trúc, và không gian đô thị không thể vắng bóng các tác phẩm điêu khắc.
Xuất thân là sinh viên khoa Toán Trường Đại học Sư phạm, nhà điêu khắc Vũ Tiến vì hoàn cảnh gia đình mà học hành dang dở và đi làm công nhân tại Nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà hơn 14 năm. Qua những cơ sở đào tạo nhằm phát hiện năng khiếu trong đội ngũ công nhân, cơ duyên đã dẫn bước ông tìm đến với nghệ thuật điêu khắc. Từ tay ngang rẽ sang nghệ thuật, ông luôn nỗ lực rèn luyện không ngừng, từ học trong trường lớp nghệ thuật nâng cao đến học hỏi từ đồng nghiệp thế hệ người đi trước như họa sỹ Lương Xuân Nhị, nhà điêu khắc Phạm Gia Giang, Nguyễn Thị Kim, nhà điêu khắc Lê Thược, Nguyễn Thiện...
Những năm 1970-1980, khi phong trào mỹ thuật Thủ đô về hội họa, điêu khắc được mở rộng và nâng cao, ông được xem là "một trong những con chim đầu đàn của phong trào mỹ thuật Thủ đô". Ông nổi tiếng với những tác phẩm điêu khắc: tượng đài Bình Minh đặt tại khu 2 Đồ Sơn, Hải Phòng; bức tượng tròn Cô thợ lò phản xạ, Chân dung nữ công nhân và Thợ rèn búa máy được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam..
Năm 1981, ông được nhân dân xã Tả Thanh Oai mời làm tượng thờ Bà Đô Hồ (Bà Chúa Tó, vợ Vua Lê Đại Hành) ở đền thờ Bà Chúa Tó, làng Tó. Bên cạnh đó, tượng đài Công nhân Mỏ Apatit Lào Cai đặt tại Công viên Công ty Apatit (Lào Cai) cũng được nhiều công nhân khu mỏ yêu quý. Cũng trong năm 2008, tượng đài Đài sen thư Bác mà ông dành bao tâm huyết để chạm trổ đã được thực hiện đặt tại công viên trung tâm thị trấn Sa Pa,..
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nhà điêu khắc Vũ Tiến đã giành được nhiều giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô như: 3 tác phẩm được giải A như Chân dung nữ công nhân, năm 1971; Thợ rèn, thạch cao năm 1975; Cô tự vệ Hà Nội năm 1980. Năm 1995, tác phẩm Ngày hội, phù điêu hình hộp của ông được giải thưởng của Qũy hỗ trợ Văn hóa Việt Nam - Thụy Điển tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (1990-1995). Năm 1996 và 1998, ông được Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Khu vực I (Hà Nội) chuyên ngành Điêu khắc của hội Mỹ thuật Việt Nam…
Một số công trình điêu khắc nổi bật của Vũ Tiến: