© Copyright 2020 PSC. ĐẠI HỌC UEH
DANH MỤC HỌC PHẦN TƯƠNG ĐƯƠNG CHO SINH VIÊN NGÔN NGỮ ANH CÁC KHÓA ÁP DỤNG TỪ HỌC KỲ 2 NH 2022-2023
Sức mua tương đương (hay được viết tắt là PPP xuất phát từ purchasing power parity) là một kiểu tính tỷ giá hối đoái giữa đơn vị tiền tệ của hai nước. Các nhà kinh tế học tính xem cùng một lượng hàng của cùng một thứ hàng hóa khi bán ở hai nước khác nhau bằng đơn vị tiền tệ của hai nước đó thì số tiền phải bỏ ra ra sao, rồi từ đó so sánh sức mua của hai đơn vị tiền tệ.
Khi tính toán mức sống tại một quốc gia, bất kỳ thu nhập tiền tệ nào cũng phải được xem xét dựa theo số lượng hàng hóa và dịch vụ mà số tiền đó có thể mua ở địa phương. Cùng một loại hàng hóa sẽ có giá khác nhau phụ thuộc vào quốc gia mà nó được bán. Chỉ số này còn quan trọng hơn cả GDP khi tính toán về điều kiện sống của người dân tại 1 quốc gia. Một số ví dụ:
Vì lý do này, người ta thường không sử dụng GDP danh nghĩa mà sử dụng sức mua tương đương khi so sánh năng lực sản xuất thực sự, tỷ lệ nghèo đói và mức sống của người dân giữa các quốc gia.
Trong kinh tế học, với giả định rằng mọi nền kinh tế đều mở cửa hoàn toàn để hàng hóa có thể lưu thông từ nước này sang nước kia và bỏ qua chi phí vận tải hàng hóa từ nước này sang nước kia, thì tỷ giá hối đoái tính theo phương pháp sức mua tương đương đúng bằng tỷ giá hối đoái spot. Tuy nhiên trong thực tế, khi hai giả định trên không được đảm bảo và vì thêm nhiều yếu tố khác, hai mức tỷ giá hối đoái thường khác nhau.
Khi so sánh tổng sản phẩm quốc nội của các nước, các cơ quan thống kê hay quy đổi tổng sản phẩm các nước theo cùng một đơn vị tiền tệ (thường là dollar Mỹ). Và khi dùng hai loại tỷ giá hối đoái spot và tỷ giá hối đoái theo sức mua tương đương sẽ cho hai con số GDP khác nhau.
Việc tính tỷ giá theo sức mua tương đương hoàn toàn không dễ dàng. Thứ nhất, sự khác biệt trong mẫu hình tiêu dùng và sản xuất làm cho việc xác định một giỏ hàng ‘tiêu chuẩn’ chung trở nên khó khăn: các hàng hóa phổ thông (ví dụ như quần áo, thực phẩm) là khá dễ dàng để so sánh; nhưng thu hẹp xuống các mặt hàng cao cấp (ô-tô, điện thoại di động, mỹ phẩm...) là phức tạp hơn nhiều. Ngoài ra còn cần đến sự bù đắp cho những khác biệt về các yếu tố như là chất lượng sản phẩm, vì khó mà kiếm được một thứ hàng hóa ở các nước khác nhau mà vẫn giống hệt nhau. Trong cố gắng tìm một thứ hàng hóa như vậy, tạp chí The Economist đã chọn bánh Big Mac và cho ra Chỉ số Big Mac. Tuy nhiên trong thực tế, để phù hợp với khẩu vị của các địa phương, McDonald vẫn làm bánh Big Mac ở địa phương này không hoàn toàn giống Big Mac ở địa phương kia. Thêm vào đó, thực phẩm như Big Mac thường được sản xuất tại địa phương và giá nhân công địa phương sẽ ảnh hưởng tới giá Big Mac. Gần đây, công ty CommSec lại giới thiệu Chỉ số iPad để đo PPP.
Mặc dù có vẻ như PPP và quy luật một giá giống nhau, vẫn có sự khác biệt: quy luật một giá áp dụng cho từng mặt hàng trong khi PPP áp dụng cho mức giá chung. Nếu quy luật một giá đúng với mọi hàng hóa thì khi đó PPP cũng chính xác; tuy nhiên, khi bàn về độ hợp lệ của PPP, một số người cho rằng quy luật một giá không nhất thiết phải chính xác để PPP có hiệu lực. Nếu quy luật một giá không chính xác với một mặt hàng nhất định, mức giá sẽ không đủ khác quá nhiều so với mức giá dự đoán bởi PPP.[1]
Thuyết sức mua tương đương cho rằng tỷ giá hối đoái giữa một đơn vị tiền đến và một đơn vị tiền tệ khác là cân bằng khi sức mua trong nước của họ với tỷ giá đó là tương đương.
Bảng sau, dựa trên dữ liệu từ tính toán vào tháng 1 năm 2013 của The Economist', cho thấy sự thấp hơn (−) hay cao hơn (+) của đơn vị tiền tệ địa phương so với đô là Mỹ trên đơn vị %, theo chỉ số Big Mac. Ví dụ, giá địa phương của một chiếc Big Mac tại Hồng Kông khi chuyển đổi sang đô la Mỹ tại tỷ giá hối đoái là 2,19 đô là Mỹ, hay 50% của giá địa phương của một chiếc Big Mac tại Mỹ là 4,37 đô la Mỹ. Do đó đô la Hồng Kông bị đánh giá thấp 50% so với đô la Mỹ theo cơ sở PPP.
Giống như chỉ số Big Mac, chỉ số iPad (được tạo ra bởi CommSec) so sánh giá một sản phẩm tại các địa điểm khác nhau. Tuy nhiên, không giống như Big Mac, tất cả iPad được sản xuất tại một địa điểm (trừ mẫu bán ở Brasil) và tất cả iPad (cùng một mẫu) đều có đặc điểm giống nhau. Do đó khác biệt về giá là do chi phí vận chuyển, thuế và những chi phí xuất hiện tại từng thị trường. Ví dụ mỗi iPad tại Argentina đắt gấp đôi tại Mỹ.
Giống như chỉ số Big Mac, chỉ số KFC đo PPP giữa các quốc gia châu Phi, được đưa ra bởi Sagaci Research (một công ty nghiên cứu thị trường tập trung vào châu Phi). Thay vì so sánh một chiếc Big Mac, chỉ số này so sánh một xô gà KFC truyền thống 12/15 miếng một xô.
Ví dụ, giá trung bình của một xô gà KFC 12 miếng. Xô gà ở Mỹ vào tháng 1 năm 2016 là $20,50; trong khi ở Namibia nó chỉ là $13,40 theo tỷ giá hối đoái. Vì vậy, chỉ số này cho thấy đô la Namibia bị đánh giá thấp 33% tại thời điểm đó.
Với ngôn ngữ, sẽ có một số thước đo để đánh giá được năng lực của người học ngôn ngữ đó. Và thước đo này là những chứng chỉ ngôn ngữ. Đây là những chứng chỉ vô cùng cần thiết cho học sinh, sinh viên hay những ai muốn thi vào công chức.
Vài năm trước, Các chứng chỉ tiếng anh A, B, C dành cho khối công nhân viên chức được cấp bởi bộ giáo dục và đào tạo. Vậy bằng B tiếng anh tương đương toeic bao nhiêu? Cùng mình tìm hiểu nhé.
Bằng B tiếng anh là điều kiện cần thiết cho ai muốn thi viên chức nhà nước
Bằng A,B,C tiếng anh là bằng của Việt Nam do Bộ giáo dục và đào tạo cấp để đánh giá năng lực của học sinh, sinh viên và là điều kiện cần thiết cho những ai muốn thi viên chức nhà nước và chỉ có giá trị trong nước tại Việt Nam.
Chứng chỉ ngoại ngữ chỉ có giá trị tại Việt Nam
Mục đích của chứng chỉ A,B,C đó là tăng khả năng hội nhập và phát triển của xã hội cũng như nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ tiếng Anh.
Hiện nay, các chứng chỉ này đã lỗi thời, từ ngày 15/1/2020 Bộ giáo dục và đào tạo đã quyết định bỏ chứng chỉ A,B,C với lý do không còn tính chuyên môn và không đánh giá được năng lực tiếng anh thực sự. Công tác tổ chức thi khá lỏng lẻo, thiếu nghiêm túc và lãng phí.
Do vậy, tất cả các cơ quan nhà nước đã thay thế bằng B tiếng anh theo chứng chỉ tiếng anh theo khung năng lực 6 bậc theo quy định mới.
Bằng B tiếng anh tương đương bậc mấy theo khung năng lực 6 bậc A1, A2,B1,B2,C1,C2.
Theo quyết định số 177/QĐ- TCBT ngày 30/1/1993 chứng chỉ tiếng anh A, B, C được cấp cho người hoàn thành chương trình đào tạo theo mức độ: Cơ bản (Elementary level), trung cấp (Intermediate level) và nâng cao (Advanced level) và chỉ áp dụng tại Việt Nam.
Tuy nhiên, format bài thi lạc hậu so với các bài thi theo tiêu chuẩn quốc tế, công tác quản lý thi chứng chỉ thì chưa chặt chẽ, hiện tượng mua bán chứng chỉ diễn ra phổ biến. Do đó, việc duy trì bằng A,B,C mang nặng tính hình thức và không còn ý nghĩa đánh giá năng lực của người học nữa.
Hiện nay theo quyết định số 66/2008/QĐ-BGDĐT thay thế quyết định 177/QĐ-TCBT, các chứng chỉ A,B,C thay thế bằng chứng chỉ tiếng anh theo khung năng lực 6 bậc A1, A2, B1, B2, C1, C2 tương đương trung cấp, cơ bản và nâng cao.
Vậy theo thông tin trên bảng, Tại Công Văn 6089/BGDĐT ngày 27/10/2014 do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành có đề cập về việc quy đổi chứng chỉ ngoại ngữ. Cụ thể, theo khuyến nghị của Hội đồng thẩm định, Bộ giáo dục và đào tạo đề xuất như sau:
Vậy, trình độ B tiếng anh theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo tương đương Bậc 2 theo khung 6 bậc.